Tin tức ngành, doanh nghiệp, hàng hoá tuần 3 tháng 3 2022
Tin doanh nghiệp   25/04/2025   239 lượt xem

Tin tức ngành:

1.Giá phân bón tăng cao chưa từng có trong 50 năm

Giá các loại phân bón đang ở mức cao nhất trong khoảng 50 năm qua, do xung đột Nga - Ukraine và từ chênh lệch cung cầu trong nước...

Theo ghi nhận thị trường, từ sau Tết Nguyên đán, giá phân bón đã tăng lần thứ 3 liên tiếp. Hiện, giá Ure lên ngưỡng 18.000 đồng/kg; Phân DAP ngưỡng 18.500-19.000 đồng/kg; NPK ngưỡng 16.000-16.500 đồng/kg… So với tháng 2, giá phân bón hiện đã tăng từ 5 đến 8%. Có loại biến động giá theo tuần, như Kali liên tục tăng vọt. Giá phân DAP có giá trung bình 874 USD/tấn, tăng 46% từ năm ngoái đến nay; Phân MAP lên tới 935 USD/tấn, tăng 44%); Kali ngưỡng 815 USD/tấn, tăng 102%...

2.Giá dầu giảm trong phiên giao dịch đầu tuần

Giá dầu thế giới vẫn tiếp đà lao dốc trong phiên giao dịch đầu tiên của tuần mới (14/3) khi dầu Brent bị đẩy xuống dưới 112 USD/thùng, còn dầu WTI ở ngưỡng 107 USD/thùng.

Theo số liệu mới cập nhật của Oil Price, đầu giờ sáng nay (14/3) giờ Việt Nam, giá dầu ngọt nhẹ WTI của Mỹ giao tháng 4 được giao dịch ở mức 107,7 USD/thùng, giảm 1,54%, tương đương với mức giảm 1,68 USD. Cùng thời điểm, giá dầu thô Brent giao tháng 5 được giao dịch ở mức 111,6 USD/thùng, giảm 0,93%, tương đương mức giảm 1,05 USD.

 

3.Sau thép, xi măng rục rịch tăng giá bán

Quý đầu tiên của năm 2022, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, giá các nguyên, nhiên liệu sản xuất thép tăng trở lại ở mức cao đã khiến giá thép bị đẩy lên và dự báo, thị trường thép trong nước sẽ tăng trưởng từ 15-20% trong năm 2022. Tuy hiệu ứng chậm hơn, nhưng kể từ giữa tháng 3, một số doanh nghiệp sản xuất xi măng đã thông báo về việc điều chỉnh giá bán và sẽ áp dụng ngay vào cuối tháng 3 này cũng do giá nguyên vật liệu đầu vào trong sản xuất xi măng đều tăng, đặc biệt giá xăng dầu và than đá tăng mạnh.Mặc dù, các doanh nghiệp đã cố gắng tìm giải pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu nhưng vẫn không thể bù đắp chi phí đầu vào. 

Việc điều chỉnh tăng giá bán được áp dụng bắt đầu từ ngày 23/3 đối với các loại xi măng bao và xi măng bao jumbo với mức tăng thêm 100.000 đồng/tấn (đã bao gồm VAT). Giá xăng, dầu “neo” ở mức cao và liên tục được điều chỉnh tăng đã ảnh hưởng trực tiếp đến cước vận chuyển sản phẩm, buộc các doanh nghiệp kinh doanh, phân phối vật liệu xây dựng phải tăng giá bán để bù đắp chi phí. Mặt khác, để sản xuất ra một số loại vật liệu xây dựng cần rất nhiều nguyên nhiên liệu đầu vào. Do đó, khi giá các mặt hàng này tăng lên, tất yếu dẫn tới giá thành sản phẩm bị kéo theo.

Thời gian tới, cùng với giá nguyên liệu tăng, việc các dự án đầu tư công, bất động sản được đẩy tiến độ xây dựng, giá nhiều loại vật liệu xây dựng như thép, xi măng có thể tiếp tục giữ ở mức giá cao.

 

4.Bảo hiểm phi nhân thọ lãi lớn

Doanh thu nở chậm

Năm 2021, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường đạt 217.338 tỷ đồng, tăng 16,71% so với năm 2020, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 57.880 tỷ đồng, tăng 3.98% so với năm 2020. Con số trên thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,63% của mảng kinh doanh này trong năm 2020. Tuy nhiên, không vì vậy mà lợi nhuận của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đi lùi trong năm 2021. Chỉ tính riêng các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên sàn, dù doanh thu phí bảo hiểm chỉ tăng trưởng 4,3%, song lợi nhuận sau thuế của nhóm này vẫn tăng 27,4%. Hơn chục doanh nghiệp đều báo lãi tăng trưởng hai con số.

Hưởng lợi từ xu hướng tăng lãi suất

Thống kê 12 doanh nghiệp bảo hiểm trên sàn, quy mô tổng tài sản đến cuối năm 2021 tăng 13,5% so với đầu năm, lên xấp xỉ 250.000 tỷ đồng. Nguồn vốn tự có tăng thấp, chủ yếu từ tích lũy lợi nhuận. Số lượng các đợt phát hành cổ phần được doanh nghiệp Việt ngành này thực hiện khá ít ỏi trong những năm gần đây. Riêng trong năm 2021, vốn điều lệ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên chủ yếu thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức cho cổ đông. 

Dự báo mặt bằng lãi suất năm 2022, nhiều đơn vị phân tích nhận định, lãi suất sẽ khó giảm thêm so với cuối năm 2021. Trái với xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ mà nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới triển khai trong năm 2020 để hỗ trợ nền kinh tế ứng phó với dịch bệnh, trong năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, khá nhiều ngân hàng trung ương đã có động thái tăng lãi suất điều hành.

Tại Việt Nam, áp lực lạm phát khi giá nhiều loại nguyên vật liệu đang có xu hướng tăng mạnh cùng triển vọng mở cửa lại toàn bộ nền kinh tế có thể sẽ khiến Ngân hàng Nhà nước phải tăng lãi suất huy động. Lãi suất tăng sẽ giúp cải thiện thu nhập tài chính cho các công ty bảo hiểm bởi danh mục đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn nằm phần lớn ở các chứng khoán đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn.

 

Tin doanh nghiệp:

BID: BIDV đại hạ giá khoản nợ 475 tỷ của một công ty thép, rao bán lần thứ 10 chỉ mong thu hồi nợ gốc

POW: POW gặp khó trong năm 2022, sẽ thoái vốn tại một số đơn vị

HPG: Chi phí đầu vào tăng mạnh khiến lợi nhuận Hòa Phát trở nên khó dự báo

BSI: Cổ phiếu BSI hút nhà đầu tư ngoại

QTP: Vượt 50% kế hoạch năm, Nhiệt điện Quảng Ninh (QTP) chốt danh sách cổ đông chi 360 tỷ đồng tạm ứng cổ tức

LDP: Louis Holdings sắp thâu tóm Dược Lâm Đồng

SSI: CTCP Shinec bắt tay SSI làm khu công nghiệp 620ha ở Khánh Hòa

HUT: ‘Trùm BOT’ muốn đầu tư vào Ninh Vân Bay

FRT: FPT Retail - Lợi nhuận tăng vọt, nợ vay gấp 5 lần vốn chủ sở hữu

VCI: Thưởng 72 tỷ đồng cho Ban Tổng Giám đốc

MBB: MB Bank sẽ có lợi nhuận tỉ USD năm 2022

FLC: FLC Gia Lai - “Tâm điểm” bất động sản nghỉ dưỡng Tây Nguyên năm 2022

DBC: Dabaco sắp chia cổ phiếu 1:1, kinh doanh gặp khó vì nguyên liệu tăng chóng mặt

VNM: Vinamilk (VNM) - Thị giá miệt mài giảm, quỹ Singapore vẫn mua thêm bất thành do điều kiện thị trường không thuận lợi

THD: Thai Holdings doanh thu hơn 8.200 tỷ đồng năm 2021, gấp 4,5 lần 2020

CII: Bán tiếp 9 triệu cổ phiếu quỹ từ ngày 22/3

 

Giá hàng hoá:

 

 

Price

Daily (%)

Weekly (%)

Monthly (%)

YOY (%)

Vàng 

(USD/Troy Ounce)

1973.93

-0.57

-1.18

6.55

14.01

Bạc 

(USD/Troy Ounce)

25.607

-0.77

-0.34

9.55

-2.63

Dầu Brent (USD/thùng)

110.1500

-2.24

-10.94

17.64

59.31

Dầu WTI (USD/thùng)

106.4900

-2.57

-11.22

17.50

62.10

Than 

(USD/tấn)

368.65

-2.99

-11.96

53.60

309.61

Chì 

(USD/tấn)

2303.82

-1.24

-6.15

-0.33

18.98

Quặng sắt (USD/tấn khô)

155.36

-1.01

2.02

5.86

-7.67

Thép 

(USD/tấn)

4900.00

-1.80

-1.71

2.08

6.57